Từ câu thơ 197 đến câu 234
Thơ : Nguyễn Du (1766-1820).
Nhạc : Quách Vĩnh-Thiện
Cap d'Agde, le 19 Septembre 2006
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng,
Vâng trình hội chủ xem tường,
Mà xem trong số đoạn trường có tên.
Cùng người một hội một thuyền đâu xa,
Này mười bài mới, mới ra,
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời,
Kiều vâng lỉnh ý đề bài,
Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm,
Xem thơ nức nở khen thầm,
Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường,
Ví đem vào tập đoạn trường,
Thì treo giải nhất chi nhường cho ai !
Thềm hoa khách đã trở hài,
Nàng còn cầm lại một hai tự tình,
Gió đâu xịch bức mành mành,
Tính ra mới biết là mình chiêm bao,
Trông theo nào thấy đâu nào,
Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây ?
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng,
Vâng trình hội chủ xem tường,
Mà xem trong số đoạn trường có tên.
Đường xa nghĩ nỗi sau nầy mà kinh !
Hoa trôi bèo dạt đã đành,
Biết duyên mình biết phận mình thế thôi !
Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi,
Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn,
Giọng Kiều rền rỉ trướng loan,
Nhà huyên chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì ?
Cớ sao trần trọc canh khuya,
Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa,
Thưa rằng : Chút phận ngây thơ,
Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền,
Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên,
Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao,
Đoạn trường là số thế nào ?
Bài ra thế ấy vịnh vào thế kia,
Cứ trong mộng triệu mà suy,
Phận con thôi có ra gì mai sau.
___________________________
Chú giãi :
Hạ cố = Chiếu cố với nhau.
Hạ tứ = Ban xuống cho
Quả kiếp nhân duyên = Quả : kết quả, Nhân : nguyên nhân, nhân quả của con người.
Tú khấu, cấm tâm = Miệng thêu, cấm tâm, ý nói thơ tuyệt vời.
Trướng loan = Màn có thêu con chim Loan.
Nhà huyên = Cây hoa Huyên, theo thuyết cổ biểu hiện quên sự lo âu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét