Người Việt ta từ
ngàn năm xưa đã có chữ viết
riêng. Chữ Việt cổ là loại chữ
tượng thanh, ghép những chữ cái
thành từ. Chữ Việt có trước cả
chữ Hán hàng ngàn năm và hoàn
toàn khác chữ Hán. Các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ học Việt nam
đã có những khám phá và còn tiếp
tục truy tìm. Cùng với các
nghiên cứu của nhiều nhà ngôn
ngữ học Pháp, Anh, Mỹ, Tiệp và
nhất là Trung Hoa (Lục Lưu, Hứa
Thân, Trịnh Tiểu) đều khẳng định
người Việt đã có chữ viết riêng
từ trước kỷ Công nguyên (BC).
Bộ chữ này lưu
lại trong nền văn hóa tiền Việt
– Mường. Trên các mặt Trống Đồng
và nhiều di vật cổ xưa khác đã
được khai quật ở Bắc bộ, Bắc
Trung bộ và rải rác ở vùng cực
bắc biên giới Việt Nam, đều có
một dạng ký hiệu giống nhau,
những hình con nòng nọc là những
tự dạng, biểu tượng để ghi chép
lại những âm thanh cấu thành từ
ngữ. Đó chính là chữ Việt cổ, bộ
chữ Việt cổ ấy dùng để ghi tiếng
nói của người Việt từ ngàn xưa.
Trống đồng
Tổ tiên chúng ta đã từng phải
sống qua một quá trình đô hộ lâu
dài của Trung Hoa, với âm mưu
hủy diệt nền văn hóa Việt Nam
chúng đã bắt dân ta dùng chữ Hán
để bức tử, tuyệt diệt với chữ
Việt cổ, với mục đích đồng hoá
dân tộc. Chữ viết tiếng Việt (bộ
chữ Khoa đẩu) thời bấy giờ là
đối tượng bị Trung Hoa hủy diệt
trước nhất, bởi nó phản ánh tư
tưởng, linh hồn, văn hóa của dân
tộc Việt. Hịch khởi nghĩa của
Hai Bà Trưng kêu gọi toàn dân
đứng lên chống Tàu được viết
bằng chữ Khoa đẩu, chữ Việt cổ.
Trong sách Hậu Hán thư (後漢書),
quyển 14 ghi: "Dân Giao Chỉ có
linh vật là trống đồng, nghe
đánh lên họ rất hăng lúc lâm
trận.... " Sách này còn viết
rằng: "Mã Viện sau khi dập tắt
cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng,
đã tịch thu các trống đồng của
các thủ lĩnh địa phương, một
phần đem tặng, phần nấu chảy để
đúc ngựa và đúc cột đồng Mã
Viện."
Sử xưa cũng ghi lại rằng: " Sau
khi nước Nam Việt của Triệu Đà
bị người Hán xâm chiếm, văn hóa
của Việt tộc bị chính sách đồng
hoá. Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp đã
bắt đốt hết sách Việt tộc, nhà
nào cất giữ, lưu truyền thì bị
giết hại. Các trống đồng Việt
tộc bị Mã Viện tịch thu (năm
43), tiếp theo sau là cuộc cướp
phá, tiêu hủy sách vở Việt tộc
của nhà Minh đầu thế kỷ 15…"
Với chính sách tận diệt văn hóa
Việt như trên, chữ “Khoa Đẩu”
của người Việt cổ và có thể cả
chữ “tượng hình” sơ khai của
thời Văn Lang, Âu Lạc, sau một
ngàn năm bị đô hộ, đã bị xoá
sạch, vì thế không thể phổ biến
được cũng là điều dễ hiểu.
Hịch khởi nghĩa
của Hai Bà Trưng, viết bằng chữ
Khoa Đẩu.
Chữ Việt cổ trên
thân Trống Đồng Lũng Cú.
Tuy nhiên, với
chí khí bất khuất của người
Việt, luôn khát vọng độc lập tự
do, ông cha ta từ chữ Hán tượng
hình đã chế tác ra thứ chữ Nôm
để sử dụng, nhằm mục đích giữ
gìn nền văn hoá Việt Nam cận đại
và bản sắc văn hóa thuần túy dân
tộc Việt.
Nhìn chung Việt
Nam vào thời điểm lịch sử cổ,
trung đại, vẫn chưa chính thức
có trường lớp nào dạy nói và
viết tiếng Việt. Người Việt
chúng ta ngày xưa đa số được học
(nói) tiếng Việt ngay từ lúc lọt
lòng mẹ, trong sinh hoạt gia
đình và thông qua những giao
tiếp hàng ngày ngoài xã hội là
chính. Ở giai đoạn này chữ viết
vì chưa truyền bá phổ thông
trong dân chúng nên các câu Ca
Dao, Tục Ngữ,Thơ ngắn, dài
(1)
nhờ có vần, có
điệu, nên mau thuộc và dễ nhớ;
là loại văn chương ca dao truyền
khẩu được phổ biến rộng rãi
trong nhân gian và ngày càng
phong phú, súc tích.
Trong quá trình
xã hội phát triển, dân tộc Việt
Nam ta đã tiếp xúc giao lưu với
nhiều dân tộc khác. Trong tiếp
xúc trao đổi thông tin với nhau,
vấn đề học hỏi và hiểu rõ ngôn
ngữ của nhau trở nên nhu cầu cần
thiết.
Vào thế kỷ XV. Sứ
thần Trung Quốc đã phải nhờ đến
các cơ quan phiên dịch ở Trung
Quốc như Hội thông quán, Tứ Di
quán, Tứ Dịch quán làm nhiệm vụ
phiên dịch mỗi khi giao tiếp với
Việt Nam. Các cuốn từ vựng đối
chiếu tiếng Hán với một số thứ
tiếng khác được lần lượt biên
soạn, trong đó có cuốn An Nam
Dịch Ngữ (*) là cuốn từ điển
dùng để đối chiếu tiếng chữ Hán
với chữ tiếng Việt.
(*) An Nam Dịch
Ngữ là bản từ vựng dùng cho cơ
quan hành chánh (nhà Minh) đặc
trách giao dịch với Việt Nam
từng phải triều cống.
Giai đoạn năm
939, thời Vua Ngô Quyền lập
quốc, các triều đại Vua Việt Nam
đã mượn chữ Hán (chữ Nho) để sử
dụng trong hành chánh, học
thuật. Tuy nhiên, người Việt vẫn
nói tiếng Việt, không công nhận
chữ Hán (chữ Nho) là quốc ngữ.
Tổ tiên ta luôn tìm cách sáng
tạo ra quốc ngữ riêng và đã dựa
trên chữ Hán để chế ra chữ Nôm.
Chữ Nôm được ghi nhận chính thức
xuất hiện vào thế kỷ 13, khi
quan Hình Bộ Thượng Thư: Nguyễn
Thuyên, triều Trần Nhân Tông
(1279-1293), làm bài văn “Tế cá
sấu”
(2)
bằng chữ Nôm. Vào thời nầy, chữ
Nôm được xem là Quốc ngữ bên
cạnh chữ Nho, nên tập thơ chữ
Nôm của Chu Văn An (1292–1370)
được ông gọi là Tiều ẩn quốc ngữ
thi tập (Tập thơ quốc ngữ). Đoạn
Trường Tân Thanh (Kim Vân Kiều)
của thi hào Nguyễn Du, là một
trong những tiêu biểu hàng đầu
những thành tựu đáng kể của chữ
Nôm đã đóng góp cho nền văn hoá
Việt Nam cận đại.
Tuy nhiên, chữ
Nôm vì được cấu tạo trên căn bản
chữ Nho, nên khi muốn học chữ
Nôm thì phải biết chữ Nho (chữ
Hán).Vì vậy chữ Nôm khó học,
không phổ thông trong dân chúng,
và ít được sử dụng rộng rãi.
Đoạn Trường Tân
Thanh (Truyện Kim Vân Kiều) của
thi hào Nguyễn Du
(Sách cổ viết chữ
Nôm)
Đến giai đoạn thế kỷ 16, năm
1533. Khi các nhà truyền giáo
phương Tây đến Việt nam để
truyền dạy ĐạoThiên Chúa, các
giáo sĩ đã nghiên cứu, và soạn
ra bộ chữ từ chữ La tinh để viết
và cách phiên âm tiếng Việt,
dùng cho việc giảng đạo bằng
ngôn ngữ Việt . Từ bộ chữ này đã
trở thành Chữ Quốc Ngữ. Đây cũng
là giai đoạn khởi đầu quan trọng
nhất, có tính chất quyết định đã
giúp cho ngôn ngữ Việt, và nền
Văn Hóa Việt Nam được phát triển
nhanh chóng.Các
giáo sĩ, tu sĩ Jesuit (Dòng Tên)
. Người Bồ Đào Nha như Francisco
de Pina, Gaspar d’Amaral,
Antonio Barbosa, v.v. Sử dụng
chữ cái La tinh để ghi chép,
phiên âm Tiếng Việt. Năm 1618,
linh mục Francisco De Pina cùng
với linh mục Phêrô, đã dịch Kinh
Lạy Cha và các Kinh căn bản khác
sang tiếng Việt, có thể xem đây
là khởi đầu cho việc soạn thảo
chữ Quốc ngữ. Các Linh mục tương
đối hoàn tất hệ thống chuyển mẫu
tự La-tinh thích hợp với cách
giọng phát âm và thanh điệu
tiếng Việt. Nhưng giai đoạn nầy
chưa được đầy đủ.
Bản Kinh lạy Cha
được viết tay năm 1632 nguyên
bản như sau:
Người có công
hoàn thiện công trình này là
Giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Tác
giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La ,
Ngữ pháp tiếng An Nam, và “Bài
giảng giáo lý Tám ngày” đầu tiên
xuất bản vào năm 1651.
Từ điển
Việt-Bồ-La
Hình bìa “Sách
Phép Giảng Giáo Lý Tám Ngày”
Ðây là sách giáo
lý được biên soạn để giúp cho
các cha truyền dậy giáo lý tại
Việt nam. Cuốn sách được in bằng
hai thứ tiếng: La tinh và Việt
Nam. Trên mỗi trang sách chia
làm hai, có một gạch đôi từ trên
xuống dưới: Bên tay trái của
người đọc sách là chữ La tinh,
bên tay phải là chữ Việt. Ðể
người đọc dễ dàng đối chiếu song
ngữ. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes
- Ðắc Lộ, đặt ở đầu mỗi ý tưởng
chính mẫu tự abc... cho hai phần
La, Việt, rồi chính giữa trang
sách cũng đặt mẫu tự abc... cho
hai phần La Việt song song. Cuốn
sách gồm có 319 trang. Sách
không chia ra từng chương, mà
lại chia theo từng ngày học (Tám
ngày), được trình bày in ấn có
tính cách như một giáo trình sư
phạm.
Giáo sĩ Alexandre
de Rhodes( Mai Đắc Lộ ).
Giáo sĩ Alexandre De Rhodes
(Sinh năm1591 tại Avignon, Pháp;
mất năm 1660 tại Ispahan, Ba
Tư). Ngài đã sang Việt Nam
truyền đạo trong vòng sáu năm
(1624 -1630). Ngài là người
có công rất lớn trong việc hệ
thống hoá chữ viết tiếng Việt.
Nhờ đó mà chữ Quốc Ngữ được hình
thành và trở thành hệ thống có
quy tắc và khoa học, dễ viết, dễ
phát âm, dễ học. Nhìn chung, sự
hình thành Quốc ngữ không phải
do công sức cá nhân của một giáo
sĩ, mà là công sức tập thể của
nhiều giáo sĩ thuộc nhiều nước
khác nhau, nhiều thế hệ khác
nhau, đã đến truyền đạo tại Việt
Nam. Và trong đó còn có sự đóng
góp trực tiếp nhưng âm thầm của
rất nhiều giáo sĩ Việt Nam và
đồng bào giáo dân lúc bấy giờ.
Chữ Quốc ngữ tuy ra đời từ
thế kỉ 17 (1651) ở Việt Nam
nhờ công lao tâm trí của các Tu
sĩ truyền giáo, nhưng bị giới
hạn chỉ dùng để giúp các Cha
giảng, truyền đạo. Vì lúc ấy
triều đình phong kiến Việt Nam,
đàng Trong lẫn đàng Ngoài với
chính sách cấm đạo, và giết hại
Giáo sĩ nên chữ Quốc ngữ đã
không thể phát triển, truyền bá
rộng rãi.
Quá trình hình
thành và phát triển của chữ Quốc
ngữ được hoàn chỉnh có thể chia
làm 3 giai đoạn sau:
Giai Ðoạn Sơ Khởi
(1620-1626):
Các nhà truyền
giáo Âu Châu đã đến Hà Tiên và
Thừa Thiên từ giữa thế kỷ 16.
Nhưng mãi sang đến đầu thế kỷ 17
những hoạt động truyền giáo này
mới được ghi lại khá đầy đủ.
Khởi đầu, các nhà truyền giáo đã
đến Hội An để giúp đỡ các giáo
hữu người Nhật. Hội An (Hội Phố)
thời ấy là một cảng buôn bán sầm
uất, với những phố riêng cho
người Nhật và người Hoa.
Theo sách cũ,
người Âu Châu đầu tiên thạo
tiếng Việt là linh mục Francisco
de Pina, người Bồ Ðào Nha
(Portugal) (3) . Năm 1620, với
sự công tác của người bản xứ,
các tu sĩ Dòng Tên (Jésuite) tại
Hội An đã soạn thảo một sách
giáo lý bằng chữ Nôm. Từ năm
1621 trở đi, các nhà truyền giáo
đã bắt đầu chuyển qua mẫu tự abc
những địa danh, tên tộc, và
từ-ngữ Việt trong những bản
tường trình cho giáo hội về hoạt
động của họ.
Dựa vào những
tài-liệu viết tay còn được lưu
trữ, trong giai-đoạn sơ khai của
chữ Quốc Ngữ, các chữ thường
được viết liền và không có đánh
dấu.
Thí dụ:
- Annam = An Nam
- Unsai = Ông Sãi
- Ungue = Ông
Nghè
- Bafu = Bà Phủ
- doij = đói
- scin mocaij =
xin một cái
- Sayc Chiu =
Sách chữ
- Tuijciam, Biet
= Tôi chẳng biết
Giai Ðoạn Hai
(1631-1648)
Những tài-liệu
viết tay trong giai-đoạn này,
đặc biệt là của linh mục
d’Amaral, cho thấy chiều hướng
mới trong cách viết chữ Quốc
Ngữ. Các chữ được viết cách ra
và đã được bỏ dấu. Nhiều chữ
được viết như ta hằng thấy ngày
nay.
Thí dụ như:
· Nghệ An
· Bố Chính
Nhiều chữ nhìn
tương tự nhưng có lối đánh vần
và bỏ dấu hơi khác
· Thính hoa:
Thanh Hóa
· oũ bà phủ: Ông
bà Phủ
· hụyen: huyện
· sãy: sãi
Ngoài những bản
tường trình, giai đoạn này còn
có ba tài-liệu quan-trọng khác.
Một là biên-bản hội-nghị năm
1645 của 35 linh mục Dòng Tên
tại Macao để xác nhận mô thức
rửa tội bằng tiếng Việt Nam (4)
. Hai là cuốn tự-điển Việt-Bồ-La
của linh mục Gaspar d’Amaral
(Diccionário
anamita-português-latim). Ba là
cuốn tự-điển Bồ-Việt
(Diccionário português-anamita)
của linh mục Antonio Barbosa (5)
.
Ðến năm 1972,
biên bản cuộc hội nghị được lưu
trữ tại Văn Khố Dòng Tên tại La
Mã (6) . Còn hai cuốn tự-điển
kia, lúc đầu được tàng trữ tại
Văn Khố Dòng Tên tỉnh Nhật Bản
tại Macao, đã mất tích sau các
cuộc di chuyển của văn khố này
từ Macao qua Manila (Phi Luật
Tân), từ Manila qua Madrid (Tây
Ban Nha). Sở dĩ chúng ta còn
biết đến hai cuốn tự-điển này là
vì chính Ðắc Lộ, trong lời tựa
của cuốn tự-điển mà ông xuất-bản
năm 1651, đã viết rõ là ông đã
dùng hai cuốn tự-điển trên để
soạn-thảo cuốn tự-điển của mình.
Giai Ðoạn Ba
(1649-1651):
Giai đoạn này
được đánh dấu bằng sự thống nhất
cách viết chữ Quốc Ngữ và việc
ấn hành hai cuốn sách quốc ngữ
đầu tiên của Ðắc Lộ (7) . Hai
cuốn ấy là:
· Dictionarivm
annamiticvm, lvsitanvm, et
latinvm, ope Sacrae
Congregationis de Propaganda
Fide in lvcem editvm. Ab
Alexandro de Rhodes è Societate
Iesv, ejusdemque Sacrae
Congregationis Missionario
Apostolico, Roma, 1651, in-4°
· Cathechismvs
pro iis, qui volunt suscipere
Baptismvm, in Octo dies diuisus.
Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn
chiụ phép rứa tọi, ma /beào (8)
đạo thánh đức Chúa blời. Ope
Sacrae Congregationis de
Propaganda Fide in lucem editus.
Ab Alexandro de Rhodes è
Societate Iesv, ejusdemque
Sacrae Congregationis
Missionario Apostolico, Roma,
1651, in-4° .
(Hết phần trích
dẫn)
Toàn Quyền Đông
Dương Martial Merlin (Bên phải
hình)
Mãi cho đến ngày
18 tháng 9 năm 1924 (Giai đoạn
Pháp thuộc), toàn quyền Đông
Dương Martial Merlin (1923-1925)
đã ký quyết định chính thức cho
dạy chữ Quốc Ngữ ở ba năm đầu
cấp tiểu học, được phổ biến rộng
rãi toàn quốc. Sự ra đời và
truyền bá chữ Quốc ngữ mọi nơi,
trong các trường học, đã giúp
cho người Việt Nam, dễ dàng học
hỏi, nghiên cứu khi tiếp xúc với
văn hoá phương Tây qua sách báo,
nâng cao nhận thức, dân trí phát
triển cao hơn và nhanh hơn so
với các nước trong vùng.
Cũng từ đấy,
người Việt, tiếng Việt đã dùng
chữ viết theo mẫu tự La Tinh cho
đến nay.
Học sinh trường
Công giáo tỉnh Nam Định
Tinh thần sĩ phu
(Nho giáo) xưa, ít nhiều bị lệ
thuộc chẳng những Nho giáo mà cả
văn hóa Trung Hoa. Việc bãi bỏ
Nho học và thay đổi chữ viết từ
chữ Nho (chữ Hán ) sang Quốc
ngữ, đã giúp Việt Nam chấm dứt
vĩnh viễn giai đoạn lệ thuộc chữ
Hán và văn hóa Trung Hoa.
Vì đắm chìm lâu
đời trong văn hóa Trung Hoa, nên
có người lầm tưởng rằng văn hóa
Trung Hoa là văn hóa dân tộc, và
những anh hùng, liệt nữ Trung
Hoa là khuôn vàng thước ngọc cho
văn hóa Việt, lịch sử Việt. Các
tác giả chữ Nho xưa thường dùng
điển tích về những vua quan, anh
hùng, thần thánh, phong tục, tập
quán của Trung Hoa để làm mẫu
mực cho người Việt.
Nhưng từ khi có
chữ Quốc ngữ, dân tộc Việt Nam
thoát ra khỏi văn hóa Trung Hoa,
nhiều người mới có cơ hội tìm
thấy lại cội nguồn, trở lại bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Từ
đấy, nền văn hóa dân tộc càng
ngày càng được đề cao trong nền
văn học Quốc ngữ, trong Sử sách
giáo khoa: Hai Bà Trưng, Triệu
Nữ Vương, Ngô Quyền, Trần Hưng
Đạo, Trần Bình Trọng, Lê Lợi,
Quang Trung mới là những anh
hùng đích thực, những tấm gương
sáng trong lịch sử của người
Việt Nam.
Trường dạy Quốc
Ngữ đầu tiên ở Việt Nam
Trường Trung học
Adran (Collège d'Adran)
(3)
Là trường dạy
Quốc Ngữ đầu tiên ở Việt Nam
được các linh mục mở ở Sài gòn
từ năm 1861 - 1887.
Trường ADRAN Sài
Gòn, đến năm 1954 được chia
thành 2 Trường Trung Học : Trung
học Võ Trường Toản và Trung học
Trưng Vương.
Hình một lớp học
trong buổi thực nghiệm ngoài
trời.
Chấm dứt thời kỳ
của nền giáo dục chữ Hán, chữ
Nôm: Lối học từ chương.
Một lớp học trong
giờ Địa lý.
Hình Thầy đồ và
các học sinh ngày xưa.
Quang cảnh trường
thi Nam Định khoa thi năm Nhâm
Tý (1912)
Giấy Khai Sinh
năm 1938 còn sử dụng 4 ngôn ngữ
(Hán, Nôm, Quốc ngữ và Pháp)
Gia Định Báo in
chữ Quốc ngữ lần đầu tiên phát
hành tại Sài Gòn, ngày
15/4/1865.
Trương Vĩnh Ký -
Pétrus Ký (1837-1898)
Khi nói đến chữ
Quốc ngữ, và Báo Chí Việt Nam
thì cũng không thể quên công lao
của Ông Trương Vĩnh Ký, ông là
người đầu tiên sáng lập,khai
sinh nền Báo Chí Quốc ngữ của
Việt Nam, ông là Tổng biên tập
tờ Gia Định Báo in chữ Quốc ngữ
đầu tiên:
Ông Pétrus -
Trương Vĩnh Ký đã viết một bài
khuyến khích việc học chữ Quốc
ngữ, trong đó có đoạn như sau:
“…Thầy Ký dạy học
có làm sách mẹo (văn phạm) dạy
tiếng Lang Sa (Pháp), có làm ra
chữ Quốc ngữ (sic) để người ta
dễ học. Những người ký lục (thư
ký) giỏi cùng siêng năng sẽ lo
mà học chữ quốc ngữ vì có hai
mươi bốn chữ và viết đặng muôn
ngàn chuyện, chữ chi mắc rẻ (khó
dễ) cũng viết đặng, không phải
như chữ Tàu học già đời mà còn
có chữ lạ viết không ra, ở đây
có Phủ Tường (Tôn Thọ Tường) đã
học đặng chữ Quốc ngữ, viết
đặng, đọc đặng. Chữ ấy chẳng khó
đâu, ra công học một đôi tháng
thì thuộc hết…”
Ông Trương Vĩnh
Ký là một nhà văn, nhà ngôn ngữ
học, nhà giáo dục, và chuyên
khảo cứu văn hóa tiêu biểu của
Việt Nam.Với tri thức uyên bác,
am tường và nhiều cống hiến lớn
trên nhiều lĩnh vực văn hóa cổ
kim Đông Tây, nên ông được: -
Tấn phong Giáo sư Viện sĩ Pháp.-
Được nêu tên trong Bách khoa Tự
điển
Larousse - Đứng
vào vị trí " Toàn Cầu Bác Học
Thập Bát Quân Tử" tức là một
trong 18 nhà bác học hàng đầu
thế giới trong thế kỷ 19.-
Đứng vào hàng những người biết
nhiều ngoại ngữ bậc nhất trên
thế giới, ông viết và đọc
thông thạo 27 ngoại ngữ, một nhà
thông thái biết nhiều thứ tiếng
nhất ở Việt Nam...
(4)
Ông đã để lại cho
kho tàng Văn học Việt Nam hơn
100 tác phẩm về văn học, lịch
sử, địa lý, từ điển và dịch
thuật...
Tượng đài ông Trương Vĩnh Ký
cạnh Nhà Thờ Đức Bà trước 75
Các nhà khoa
bảng, trí thức, cách mạng như
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,
Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng,
kết hợp với nhiều nhà trí thức
cấp tiến thời đó, khởi xướng ra
các phong trào Duy Tân, Đông Du
nhằm vận động cải cách văn hóa,
chính trị trên toàn quốc, kêu
gọi bãi bỏ Nho (Hán) học, kêu
gọi việc học Quốc ngữ để nâng
cao dân trí, với lý do đơn giản:
Quốc ngữ dễ học, dễ viết, dễ phổ
cập hơn chữ Nho (Hán). Các ông
đã vận động mở trường dạy quốc
ngữ khắp nước, rầm rộ nhất là ở
Quảng Nam (1905), Bình Thuận
(Trường Dục Thanh, 1907) và Hà
Nội (Đông Kinh Nghĩa Thục,1907).
Trong một bài thơ khuyến khích
việc học quốc ngữ của Đông Kinh
Nghĩa Thục, có đoạn viết:“…
Chữ quốc ngữ là hồn trong nước,
Phải đem ra tỉnh trước dân ta,
Sách các nước, sách Chi-na, Chữ
nào nghĩa ấy, dịch ra cho
tường…”
Các sĩ phu của
Trường Đông Kinh Nghĩa Thục.
Khi phong trào
Duy Tân, và Đông Kinh Nghĩa Thục
ngày càng lớn mạnh, khiến cầm
quyền thuộc địa Pháp lo ngại
tinh thần yêu nước và chống thực
dân Pháp của đồng bào Việt Nam.
Việt Nam Vong Quốc Sử của nhà ái
quốc Phan Bội Châu xuất hiện lúc
bấy giờ là một trong những tiếng
chuông thức tỉnh tinh thần dân
tộc. Làn sóng yêu nước nổi lên
khắp nơi, làm thực dân Pháp phải
lo sợ, nên đã ngưng trợ cấp và
đóng cửa một số trường.
Bài mở đầu sách
Việt Nam vong quốc sử, Phan Bội
Châu.
(Không có gì đau
bằng người mất nước, cũng không
có gì đau bằng người bị mất nước
mà bàn việc nước! Tôi muốn viết
đoạn sử mất nước này, nhưng đã
bao phen lệ cạn huyết khô, mà cơ
hồ không viết nổi chữ nào...)
Chữ Quốc ngữ
trong giai đoạn này vẫn ngày
càng phổ biến, đã giúp dân chúng
dễ dàng học, hiểu biết những sơ
đẳng cần thiết trong đời sống,
theo dõi sát các tin tức thời
sự, các chuyển biến thời cuộc
chính trị trong nước và thế giới
qua sách báo, truyền đơn.Từ năm
1925 nhiều đảng phái chống Pháp
được thành lập, truyền đơn, lời
kêu gọi, sáng tác thơ văn yêu
nước… đều viết bằng chữ Quốc
ngữ.
Nền văn học Việt
Nam vào năm 1933 chuyển biến
mạnh, xuất hiện một thể loại Văn
mới, là Văn xuôi viết bằng chữ
Quốc ngữ do ông Nguyễn Tường
Tam, bút hiệu Nhất Linh và nhóm
văn sĩ thành lập lấy tên: Tự Lực
Văn Đoàn, với 10 năm sáng tác và
hoạt động báo chí, khai sinh nên
dòng văn học lãng mạn Việt Nam.
Nổi trôi trong những diễn biến
lịch sử bất lợi, khó khăn của
thời cuộc đất nước lúc bấy giờ,
nhưng nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã
cống hiến nhiều vào sự phát
triển Văn Học của Việt Nam trong
giai đoạn đầu thế kỷ 20.
Lớp học Mẫu giáo
trong giờ Tập Viết ảnh trước
1975