Ảnh của Tôi
16 Phan Ngọc Tòng P.2, TP.Bến Tre, Vietnam
Tin học - Bến tre - Vi tính - Bến Tre - Laptop Bến Tre - Thiết kế - Hướng dẫn - Sửa chữa Lắp ráp cài đặt - Phục hồi ảnh cũ - Hướng dẫn - Dựng đĩa Phim Nhạc - ảnh Kỹ thuật số - Đồ họa - CD&DVD Soft Driver... Các dịch vụ liên quan đến vi tính tin học. Nơi bạn đến là được. Keyword: Tin hoc Ben tre tnx -Vi tinh Ben Tre tnx - Tân Nam Xương - Bến Tre tin hoc tnx - Ben Tre vi tính tnx -bentretnx - vitinhtnx

@ Nhận chụp ảnh, quay phim cưới hỏi, sinh nhật, đám tiệc..., tạo album ảnh & CD & DVD kỹ niệm, album nhạc..., đội ngủ nhà nghề với công nghệ studio kỹ thuật số hiện đại. @

 Hướng dẫn và nhận thiết kế: @Film @Ảnh kỹ thuật số + Ra ảnh dựng phim cho máy chụp hình, máy quay phim Kỹ thuật số,các loại camera... máy điện thoại di động

ồ họa @Corel @Photoshop

@Phone: 016.460.460.22

Nguyễn Du Kim Vân Kiều câu 271 - 306

Kim Trọng Thúy Kiều 
 
 
Từ câu thơ 271 đến câu 306
Thơ : Nguyễn Du (1766-1820).
Nhạc : Quách Vĩnh-Thiện
Paris, le 15 Octobre 2006
Ca Sĩ : Tố Hà 


Mấy lần cửa đóng then cài,
Đầy thềm hoa rụng biết người ở đâu ?
Tần ngần đứng suốt giờ lâu,
Dạo quanh chợt thấy mé sau có nhà.
*
Là nhà Ngô Việt thương gia,
Buồng không để đó người xa chưa về,
Lấy điều du học hỏi thuê,
Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang,
Có cây có đá sẵn sàng,
Có hiên Lãm Thúy nét vàng chưa phai,
Mừng thầm chốn ấy chữ bài,
Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây.

Song hồ nửa khép cánh mây,
Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông,
Tấc gang động khóa nguồn phong,
Tuyết mù nào thấy bóng hồng vào ra,
Nhẫn từ quán khách lân la,
Tuần trăng thấm thoát nay đà thêm hai,
Cách tường phải buổi êm trời,
Dưới đào dường có bóng người thước tha.
Mấy lần cửa đóng then cài,
Đầy thềm hoa rụng biết người ở đâu ?
Tần ngần đứng suốt giờ lâu,
Dạo quanh chợt thấy mé sau có nhà.
*
Buông cầm xóc áo vội ra,
Hương còn thơm nức người đà vắng tanh,
Lần theo tường gấm dạo quanh,
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa,
Giơ tay với lấy về nhà,
Này trong khuê các đâu mà đến đây,
Gẫm âu người ấy báu này,
Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm.
Liền tay ngắm nghía biếng nằm.
Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai,
Tan sương đã thấy bóng người,
Quanh tường ra ỷ tìm tòi ngẩn ngơ,
Sinh đà có ỷ đợi chờ,
Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng,
Thoa nầy bắt được hư không,
Biết đâu Hợp phố mà mong châu về.

Nguyễn Du Kim Vân Kiều câu 235 - 270

Mộng Triệu Mạch Tương 
 

Từ câu thơ 235 đến câu 270
Thơ : Nguyễn Du (1766-1820).
Nhạc : Quách Vĩnh-Thiện
Cap d'Agde, le 20 Septembre 2006
Ca Sĩ : Thụy Long 


Dạy rằng : Mộng Triệu cớ đâu ?
Bỗng không mua não, chuốc sầu nghĩ nao !
Vâng lời khuyên giải thấp cao,
Chưa xong điều nghĩ đã đào Mạch Tương.
*
Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,
Nách tường bông liễu bay ngang trước mành,
Hiên tà gác bóng chênh chênh,
Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình,
Cho hay là thói hữu tình,
Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong !
Chàng Kim từ lại thư song,
Nỗi nàng canh tánh bên lòng biếng khuây,
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê !
Mây Tần khóa kín song the,
Bụi hồng liệu nẻo đi về chiêm bao,
Tuần trăng khuyết đĩa dầu hao,
Mặt mơ tưởng mặt lòng ngao ngán lòng,
Buồng văn hơi giá như đồng,
Trúc se ngọn thỏ tơ chùng phím loan.

Dạy rằng Mộng Triệu cớ đâu ?
Bỗng không mua não, chuốc sầu nghĩ nao !
Vâng lời khuyên giải thấp cao,
Chưa xong điều nghĩ đã đào Mạch Tương.
*
Mành Tương phân phất gió đàn,
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình,
Vì chăng duyên nợ ba sinh,
Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi,
Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người,
Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi,
Một vùng cỏ mọc xanh rì,
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu,
Gió chiều như gọi cơn sầu,
Vi Lô hiu hắt như màu khơi trêu,
Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,
Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang,
Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh,
Lơ thơ tơ liễu buông mành,
Con oanh học nói trên cành mỉa mai.

Nguyễn Du Kim Vân Kiều câu 197 - 234

Kiếp Nhân Duyên
 

Từ câu thơ 197 đến câu 234
Thơ : Nguyễn Du (1766-1820).
Nhạc : Quách Vĩnh-Thiện
Cap d'Agde, le 19 Septembre 2006
Ca Sĩ : Quỳnh Lan
Mấy lòng hạ cố đến nhau,
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng,
Vâng trình hội chủ xem tường,
Mà xem trong số đoạn trường có tên.
Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cùng người một hội một thuyền đâu xa,
Này mười bài mới, mới ra,
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời,
Kiều vâng lỉnh ý đề bài,
Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm,
Xem thơ nức nở khen thầm,
Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường,
Ví đem vào tập đoạn trường,
Thì treo giải nhất chi nhường cho ai !
Thềm hoa khách đã trở hài,
Nàng còn cầm lại một hai tự tình,
Gió đâu xịch bức mành mành,
Tính ra mới biết là mình chiêm bao,
Trông theo nào thấy đâu nào,
Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây ?
Mấy lòng hạ cố đến nhau,
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng,
Vâng trình hội chủ xem tường,
Mà xem trong số đoạn trường có tên.
Một mình lưỡng lự canh chầy,
Đường xa nghĩ nỗi sau nầy mà kinh !
Hoa trôi bèo dạt đã đành,
Biết duyên mình biết phận mình thế thôi !
Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi,
Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn,
Giọng Kiều rền rỉ trướng loan,
Nhà huyên chợt tỉnh hỏi cơn cớ gì ?
Cớ sao trần trọc canh khuya,
Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa,
Thưa rằng : Chút phận ngây thơ,
Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền,
Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên,
Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao,
Đoạn trường là số thế nào ?
Bài ra thế ấy vịnh vào thế kia,
Cứ trong mộng triệu mà suy,
Phận con thôi có ra gì mai sau. 
 

 ___________________________
Chú giãi :
Hạ cố = Chiếu cố với nhau.
Hạ tứ = Ban xuống cho
Quả kiếp nhân duyên = Quả : kết quả, Nhân : nguyên nhân, nhân quả của con người.
Tú khấu, cấm tâm = Miệng thêu, cấm tâm, ý nói thơ tuyệt vời.
Trướng loan = Màn có thêu con chim Loan.
Nhà huyên = Cây hoa Huyên, theo thuyết cổ biểu hiện quên sự lo âu.

Nguyễn Du Kim Vân Kiều câu 159 - 196

Gặp Gở Làm Chi ? 
 
 
KVK105 - Từ câu thơ 159 đến câu 196
Thơ : Nguyễn Du (1766-1820).
Nhạc : Quách Vĩnh-Thiện
Paris, le 12 Juillet 2006
Ca Sĩ : Mai Thảo

May thay giải cấu tương phùng,
Gặp tuần đố lá thỏa lòng tìm hoa,
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân Lan thu cúc mặn mà cả hai.
*
Người quốc sắc kẻ thiên tài,
Tình trong như đã mặt ngoài còn e,
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê,
Rốn ngồi chẳng tiện rút về chỉn khôn,
Bóng tà như giục con buồn,
Khách đà lên ngựa người còn nghé theo,
Dưới cầu nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thước tha,
Kiều từ trở gót trướng hoa,
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không,
Gương nga chênh chếch dòm song,
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân,
Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà,
Một mình lặng ngắm bóng nga,
Rộn đường gần với nỗi xa bời bời.
*
May thay giải cấu tương phùng,
Gặp tuần đố lá thỏa lòng tìm hoa,
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân Lan thu cúc mặn mà cả hai.
*
Người mà đến thế thì thôi,
Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi,
Người đâu gặp gở làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không ?
Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình,
Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu,
Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
Có chiều phong vận có chiều thanh tân,
Sương in mặt tuyết pha thân,
Sen vàng lãng đãng như gần như xa,
Chào mừng đón hỏi dò la,
Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây ?
Thưa rằng : Thanh khí xưa nay,
Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên ?
Hàn gia ở mé tây thiên,
Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu. 

 ________________________________
Chú giãi :
Giãi cấu tương phùng = Cuộc gặp gỡ tình cờ.
Đố lá = Cuộc chơi mùa xuân, xem số lá để đoán việc may rủi.
Quốc sắc = Sắc đẹp nhất nước.
Chỉn khôn =  chẳng xong.
Vàng treo ngấn nước = Ánh trăng vàng dọi xuống ngấn nước.
Phong vận = Yểu điệu.

Nguyễn Du Kim Vân Kiều câu 119 - 158

Kim Trọng 
 
 
Từ câu thơ 119 đến câu 158
Thơ : Nguyễn Du (1766-1820).
Nhạc : Quách Vĩnh-Thiện
Paris, le 30 juillet 2006
Ca Sĩ : Xuân Phú

Một lời nói chửa kịp thưa,
Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay,
Áo ào đổ lộc rung cây,
Ở trong dường có hương bay ít nhiều,
Đè chừng ngọn gió lần theo,
 Dấu giày từng bước in rêu rành rành.
Mặt nhìn ai nấy đều kinh,
Nàng rằng này thực tinh thành chẳng xa,
Hữu tình ta lại gặp ta,
Chớ nề u hiển mới là chị em,
Đã lòng hiển hiện cho xem,
Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời,
Lòng thơ lai láng bồi hồi,
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi,
Dùng dằng nửa ở nửa về,
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần,
Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng,  
Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo  một vài thằng con con,
Tuyết in sắc ngựa câu giòn,
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời,
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao,
Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa,
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh,
Nền phú hậu bậc tài danh,
Văn chương nết đất thông minh tính trời,
Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa,
Chung quanh vẫn đất trước nhà,
Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân,
Trộm nghe thơm nức hương lân,
Một nền Đồng Tước khoá xuân hai Kiều,
Nước non cách mấy buồng thêu,
Những là trộm dấu thầm yêu chốc mòng.

Nguyễn Du Kim Vân Kiều câu 77 - 118

Hồng Nhan Bạc Mệnh 

KVK103 - Từ câu thơ77đến câu 118
Thơ : Nguyễn Du
Nhạc : Quách Vĩnh-Thiện
Paris, le 2 juillet 2006
Ca Sĩ : Tố Hà

Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ Tài, chữ Mệnh, khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
*
Sắm sanh nếp tử xe châu,
Bụi hồng một nấm mặc dầu cỏ hoa,
Trải bao thỏ lặn ác tà,
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm,
Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa.
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung,
Phũ phàng chi bấy Hoá công,
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha,
Sống làm vợ khắp người ta,
Hại thay thác xuống làm ma không chồng,
Nào người phượng chạ loan chung,
Nào người tiếc lục tham hồng là ai ?
Đã không kẻ đoái người hoài,
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương,
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Hoạ là người dưới suối vàng biết cho,
Lầm rầm khấn vái nhỏ to,
Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra,
Một vùng cỏ áy bóng tà, Gió hiu hiu thổi một và bông lau,
 *
Rút trâm sẵn giắt mái đầu,
Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần,
Lại càng mê mẩn tâm thần,
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra,
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối châu sa vắn dài,
Vân rằng chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa,
Rằng hồng nhan tự nghìn xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu,
Nổi niềm tưởng đến mà đau,
Thấy người nằm đó biết sau thế nào ?
Quan rằng chị nói hay sao,
Một điều là một vận vào khó nghe,
Ở đây âm khí nặng nề,
Bóng chiều đã ngã dặm về còn xa,
Kiều rằng : Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách còn là tinh anh,
Dễ hay tình lại gặp tình,
Chờ xem mắt thấy hiển linh bây giờ.  

Nguyễn Du Kim Vân Kiều câu 39 - 76

Thanh Minh Đạp Thanh

KVK102 - Kim Vân Kiều, từ câu 39 đến câu 76
Thơ : Nguyễn Du
Nhạc : Quách Vĩnh-Thiện
Paris, le 8 mai 2006
Ca Sĩ : Hương Giang
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi,
Cỏ non xanh rợn chân Trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là Tảo mộ hội là Đạp Thanh,
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân,
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm,
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay,
Tà tà bóng ngã về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về,
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh,
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang,
Sè sè nấm đất bên đường,
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh,
Rằng sao trong tiết Thanh Minh,
Mà đây hương khói vắng tanh thế mà.
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi,
Cỏ non xanh rợn chân Trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa,
Vương Quan mới dẫn gần xa,
Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi,
Nổi danh tài sắc một thì,
Xôn xao ngoài cửa hiếm vì yến anh,
Kiếp hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương,
Có người khách ở viễn phương,
Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi,
Thuyền tình vừa ghé tới nơi,
Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ,
Buồng không lặng ngắt như tờ,
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh,
Khóc than khôn xiết sự tình,
Khéo vô duyên bấy là mình với ta,
Đã không duyên trước chăng mà,
Thì chi chút đình gọi là duyên sau.

Nguyễn Du Kim Vân Kiều câu 1- 38

Hai Chị Em Thúy Kiều và Thúy Vân
 

KVK101 - Từ câu thơ 1 đến câu 38
Thơ : Nguyễn Du
Nhạc : Quách Vĩnh-Thiện
Paris, le 5 Février 2006
Ca Sĩ : Quỳnh Lan
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ Tài, chữ Mệnh, khéo là ghét nhau,
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. (1)
Cảo thơm lần giỡ trước đèn,
Phong tình có lục còn truyền sử xanh.
Rằng năm Gia Tỉnh Triều Minh,
Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung.
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ nối dòng nho gia.
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đày đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ Tài, chữ Mệnh, khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính Trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương, lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên xoang,
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trước rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai. 

________________________________
Trích giải : (1)  Người đẹp thường gặp cảnh không may.
Bể dâu = Sự biến đổi thăng trầm của cuộc đời.
Bỉ sắc tư phong = Được điều nầy bị kém điều kia

Mời coi thêm