Ảnh của Tôi
16 Phan Ngọc Tòng P.2, TP.Bến Tre, Vietnam
Tin học - Bến tre - Vi tính - Bến Tre - Laptop Bến Tre - Thiết kế - Hướng dẫn - Sửa chữa Lắp ráp cài đặt - Phục hồi ảnh cũ - Hướng dẫn - Dựng đĩa Phim Nhạc - ảnh Kỹ thuật số - Đồ họa - CD&DVD Soft Driver... Các dịch vụ liên quan đến vi tính tin học. Nơi bạn đến là được. Keyword: Tin hoc Ben tre tnx -Vi tinh Ben Tre tnx - Tân Nam Xương - Bến Tre tin hoc tnx - Ben Tre vi tính tnx -bentretnx - vitinhtnx

@ Nhận chụp ảnh, quay phim cưới hỏi, sinh nhật, đám tiệc..., tạo album ảnh & CD & DVD kỹ niệm, album nhạc..., đội ngủ nhà nghề với công nghệ studio kỹ thuật số hiện đại. @

 Hướng dẫn và nhận thiết kế: @Film @Ảnh kỹ thuật số + Ra ảnh dựng phim cho máy chụp hình, máy quay phim Kỹ thuật số,các loại camera... máy điện thoại di động

ồ họa @Corel @Photoshop

@Phone: 016.460.460.22

CỔ HỌC TINH HOA 2

 

13 - Bán mộc bán giáo
Có người nước Sở làm nghề bán mộc, vừa bán giáo.
Ai hỏi mua mộc, thì anh ta khoe rằng :
"Mộc nầy thật chắc, không gì đâm thủng."
Ai hỏi mua giáo, thì anh ta khoe rằng :
"Giáo nầy thật sắc, gì đâm cũng thủng."
Có người nghe nói, hỏi rằng :
"Thế bây giờ lấy giáo của bác đâm vào mộc của bác, thì thế nào ?"
Anh ta không đáp ra làm sao được.
Hàn Phi Tử
GIẢI NGHĨA
- Sở : một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ.
huyện Thượng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ.
- Mộc : đồ binh khí bằng gỗ hình bầu dục để đỡ khi mũi nhọn đâm xỉa. Cái khiên thì đan bằng mây và hình tròn.
- Giáo : đồ binh khí, đầu nhọn cán dài, dùng để đâm.
Hàn Phi Tử : Công tử nước Hàn, học trò Tuân Tử chuyên về bình danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ.
Lời Bàn
Ôi ! một cái chắc, đâm không sao thủng, với một cái sắc, đâm gì cũng thủng, hai cái phản đối hẳn nhau thì cùng đi với nhau sao được ! Thế mà người nước Sở dám khoe mộc, lại khoe giáo luôn ngay một lúc. Chẳng qua là chỉ vì mối lợi mà thành ra nói dối. Nhưng cái trò nói dối hay cùng, khi người ta hỏi đến lẽ, là không đối đáp làm sao được nữa. Có khác gì kẻ đem tượng gỗ ra chợ bán, khoe rằng : "Ai mua tượng về nhà, thì sẽ được giàu sang". Đến lúc có người bẻ : "Thế sao bác không để ở nhà cho được giàu sang, lại mang ra chợ bán làm gì ?" thì tắc khẩu mà đành vác tượng về.


14 - Ngọc ở trong đá
Một người thợ ngọc qua hàng thợ đá, vào xem các thứ đá, thấy một tảng trong có ngọc, mua về, đẽo ra quả nhiên được ngọc. Ngọc ấy trắng muốt, và có gân đỏ, quí giá vô chừng. Người thợ ngọc nhờ đó mà giàu có.
Thợ đá thấy thế, lấy làm thích lắm, cũng muốn bắt chước. Anh ta nghĩ bụng : "Đá nào trong cũng có ngọc". Rồi ở nhà có bao nhiêu thứ đá, đem cả ra đập để tìm ngọc. Không những không thấy ngọc, mà các đá vỡ tan chẳng dùng được việc gì nữa.Anh ta vừa mất của, vừa lỗ vốn, cùng quẫn khổ sở, chẳng bao lâu rồi chết.
GIẢI NGHĨA
- Cùng quẫn : túng bẩn quá không đủ ăn tiêu.
Lời Bàn
Ngọc chẳng qua cũng là một thứ đá đẹp, đá quí ở lẫn với đá thường mà thôi. Nhưng phải có con mắt tinh xem ngọc mới nhận ra và tìm được ngọc ở trong đá. Người thợ ngọc biết ngọc nên trông qua đủ biết đá nào có ngọc, chớ người thợ đá chỉ biết đá, lại muốn tìm ngọc, chẳng những không tìm thấy ngọc mà lại còn hại cả bao nhiêu đá của mình nữa ! Ôi ! Thực là xôi hỏng mà bỏng không ! Tham thì thâm ! Cái thói tham không phải đường nó vẫn hại con người ngu dại như thế ! Cho nên người trí giả phải có kiến thức rõ đích xác rồi mới chịu làm.


16 – Cái được cái mất của người làm quan
Khổng Miệt là cháu đức Khổng Tử. Bật Tử Tiện là học trò đức Khổng Tử, hai nguời cùng làm quan một thời.
Đức Khổng Tử qua chơi Khổng Miệt, hỏi rằng :
"Từ khi ngươi ra làm quan được những điều gì, mất những điều gì ?"
Khổng Miệt thưa :
"Từ khi tôi ra làm quan chưa được điều gì, mà đã mất ba điều : việc quan bận, không còn thời giờ học tập, vì thế mà học vấn không tấn tới; bổng lộc ít, không đủ chu cấp cho họ hàng, vì thế mà họ không thân thiết; công việc nhiều không thể đi thăm người đau, viếng người chết, vì thế mà ăn ở với bầu bạn không trọn vẹn"
Đức Khổng Tử nghe nói không bằng lòng.
Sau ngài đến chơi Bật Tử Tiện, lại hỏi như hỏi Khổng Miệt.
Bật Tử Tiện thưa :
"Từ khi tôi ra làm quan chưa mất điều gì, mà đã được ba điều : những điều trước học nay đem ra thực hành vì thế mà học càng rõ; bổng lộc dù bạc, cũng có thể chu cấp ít nhiều cho họ hàng, vì thế mà họ hàng càng gần; việc quan tuy bận song cũng bớt được ít thời giờ đi thăm người đau, viếng người chết, vì thế mà bầu bạn càng thân."
Đức Khổng Tử nghe nói khen rằng :
"Tử Tiện thật là người quân tử".
Gia Ngữ
GIẢI NGHĨA
- Chu cấp : chu – giúp, cấp – cho, giúp đỡ cho người ta những cái mà người cần đến.
- Thân thiết : gần gũi năng đi lại.
- Thực hành : đem ra làm thực sự.
- Bạc : mỏng, đối lại với hậu, đây là ít ỏi.
Lời Bàn
Hai đoạn nầy bày ra hai cái cảnh phản đối lại hẳn với nhau. Cũng là làm quan, mà một đàng "mất" một đàng "được" khác nhau chẳng qua là chỉ do tự mình cả, chớ không phải nghề làm quan bó buộc mình phải như thế.
Đức Khổng Tử khen người "được" là quân tử, thì tất bỉ người "mất" là tiểu nhân. Ôi ! Làm quan tuy là bận việc, tuy là ít lương, tuy là hẹp thời giờ, mà vẫn học hành cho rộng thêm trí thức, mà vẫn chu cấp được cả cho bà con, mà vẫn ân cần cả với chúng bạn, thì cũng đáng phục là ông quan quân tử thật. 


17 – Can vua bỏ rượu
Vua Cảnh Công nước Tề hay uống rượu, có bận say luôn mấy đêm ngày, xao lãng cả việc nước.
Huyền Chương can, nói :
« Nhà vua uống rượu say sưa như thế, hạ thần xin can, nhà vua không nghe, hạ thần xin tự tận. »
Ngay lúc ấy Án Tử vào yết kiến nhà vua.
Vua bảo :
« Huyền Chương can ta bỏ rượu, không thì y tự tận. Nếu ta mà nghe, thì ta hóa ra non. Nếu ta không nghe, lỡ Huyền Chương chết thì cũng đáng tiếc. »
Án Tử nói :
« Hay lắm ! May Huyền Chương gặp được nhà vua, chớ như vua Kiệt, vua Trụ, thì chết mất rồi, còn đâu sống được đến bây giờ nữa ! »
Cảnh Công nghe nói, tỉnh ngộ, tự hôm đó chừa rượu.
Án Tử Xuân Thu
GIẢI NGHĨA
- Tề : một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
- Xao lãng : quên bỏ không để tâm đến.
- Hạ thần : hạ : dưới ; thần : bầy tôi. Tiếng bầy tôi xưng với vua.
- Tự tận : tự mình làm cho mình chết.
- Yết kiến : vào hầu.
- Kiệt, Trụ : hai vua tàn bạo, độc ác, say mê tửu sắc, bỏ cả chính sự đến nỗi mất nước.
- Tỉnh ngộ : đang say mê việc gì mà biết hối lại.
Án Tử Xuân Thu : bộ sách ghi chép những công việc cùng lời nói của Án Tử. Án Tử tức là Án Anh, tên tự là Bình Trọng, người nước Tề về thời Xuân Thu, làm tướng ba đời vua Linh Công, Trang Công và Cảnh Công, có tính cần kiệm, một bụng trung thành nổi tiếng thời bấy giờ.
Lời Bàn
- Tính thích uống rượu, nghe người ta can mà chừa được như Cảnh Công, là ông vua hiền ; thấy vua say sưa, xao lãng chính sự liều thân mà can vua như Huyền Chương, là bầy tôi trung. Đến như Án Tử vừa là trung trực, lại vừa có tài phùng gián. Cũng là can ngăn mà không nói thẳng, càng bức bách quá làm cho người có tật hổ thẹn không muốn nghe, nhưng gợi cái lòng tự phụ của người, uyển chuyển được bụng người khiến cho phải tỉnh ngộ mà chừa đi ngay thì mới là giỏi.
18 – Khéo can được vua
Vua Cảnh Công nước Tề có con ngựa quý, giao cho một người chăn nuôi. Con ngựa tự nhiên một hôm lăn ra chết. Vua giận lắm, cho là giết ngựa, sai ngay quân cầm dao để phanh thây người nuôi ngựa. Án Tử đang ngồi chầu, thấy thế, ngăn lại, hỏi :
« Vua Nghiêu vua Thuấn xưa phanh người thì bắt đầu từ đâu trước ? »
Cảnh Công ngơ ngác nhìn nói :
« Thôi hãy buông ra, đem giam xuống ngục để rồi trị tội. »
Án Tử nói rằng :
« Tên phạm nầy chưa biết rõ tội mà phải chịu chết, thì vẫn tưởng, là oan. Tôi xin vì vua kể rõ tội nó, rồi hãy hạ ngục. »
Vua nói :
« Phải. »
Án Tử bèn kể tội rằng :
« Nhà ngươi có ba tội đáng chết. Vua sai nuôi ngựa mà để ngựa chết, là một tội đáng chết. Lại để chết con ngựa rất quý của vua, là hai tội đáng chết. Để vua mang tiếng vì một con ngựa mà giết chết một mạng người, làm cho trăm họ nghe thấy ai cũng oán vua, các nước nghe thấy ai cũng khinh vua, ngươi làm chết một con ngựa mà để đến nỗi dân gian đem lòng oán giận, nước ngoài có bụng dòm dỏ, là ba tội đáng chết, ngươi đã biết chưa ? Bây giờ hãy tạm giam ngươi vào ngục… »
Cảnh Công nghe nói ngậm ngùi than rằng :
« Thôi, tha cho nó ! Thôi, tha cho nó ! Kẻo để ta mang tiếng bất nhân. »
Án Tử Xuân Thu
GIẢI NGHĨA
- Tề : một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
- Phanh thây : mổ người, róc xương, lấy thịt.
- Vua Nghiêu, vua Thuấn xưa… : câu nầy hỏi thế là có ý làm cho Cảnh Công không có lối mà trả lời. Đời Nghiêu Thuấn chưa có tội phanh thây.
- Thôi hãy buông ra : cứ theo sách Án Tử Xuân Thu thì là « Tòng quả nhân thủy » (khởi tự ta ra), theo Hàn Thi Ngoại Truyện thì lại là « Túng chi » (buông ra). Đây dịch là buông ra để ăn nghĩa với câu trên.
- Hạ ngục : đời xưa bao nhiêu tội nhân đã hạ xuống ngục tối, là phải xử tử cả.
- Trăm họ : chỉ nhân dân trong nước.
- Dòm dỏ : ngấp nghé xem người ta hở cơ thì làm hại.
Án Tử Xuân Thu : bộ sách ghi chép những công việc cùng lời nói của Án Tử. Án Tử tức là Án Anh, tên tự là Bình Trọng, người nước Tề về thời Xuân Thu, làm tướng ba đời vua Linh Công, Trang Công và Cảnh Công, có tính cần kiệm, một bụng trung thành nổi tiếng thời bấy giờ.
Lời Bàn
- Vua Cảnh Công thấy con ngựa yêu của mình chết, mà bắt phanh thây kẻ nuôi ngựa là đang cơn tức giận, không còn biết nghĩa lý, pháp luật là gì nữa. Thế mà Án Tử can ngăn được là vì tuy gọi là chiều lòng, kể tội người nuôi ngựa, mà kỳ thực lại gợi đến cái lòng nhân ái của Cảnh Công, làm cho Cảnh Công phải tỉnh ngộ và biết hối. Giỏi thay ! Mấy lời nói dịu dàng, thảnh thơi mà cảm hóa được quân vương.


19 – Chết mà còn răn được vua
Cừ Bá Ngọc là người hiền mà vua Linh Công nước Vệ không dùng. Di Tử Hà là người dở mà vua lại dùng.
Sử Ngư thấy thế, đã răn nhiều lần, mà vua không nghe. Lúc ông có bệnh, sắp mất, dặn con rằng :
« Ta làm quan tại triều nước Vệ, không hay tiến được Cừ Bá Ngọc, thoái được Di Tử Hà thế là bầy tôi không khuyên răn nổi vua, thì khi ta nhắm mắt, không được làm đủ lễ. Cứ để thây ta dưới cửa sổ, thế là xong việc cho ta ».
Lúc ông mất, người con cứ làm theo lời dặn. Vua Linh Công đến viếng thấy vậy, lấy làm ngạc nhiên. Người con đem lời di chúc của cha tâu lại. Vua thất sắc nói rằng :
« Ấy là cái tội của quả nhân ! »
Rồi sai người đem xác ông Sử Ngư vào nhà, bắt khâm liệm và mai táng cho đủ lễ.
Sau quả nhiên vua Linh Công dùng Cừ Bá Ngọc mà bãi Di Tử Hà.
Đức Khổng Tử nghe truyện ấy, nói :
« Đời cổ những gián quan đến lúc chết là hết cả mọi việc, chưa có ai được như Sử Ngư chết rồi mà còn dùng xác để can vua làm cho vua phải cảm động mà nghe mình. Thế chẳng là trung trực lắm ư ! »
Gia Ngữ
GIẢI NGHĨA
- Tiến : cử lên làm một chức gì.
- Thoái : trừ bỏ đi.
- Ngạc nhiên : ngơ ngác, kinh hãi không rõ đầu đuôi ra thế nào.
- Di chúc : lời lúc chết dặn lại.
- Thất sắc : mặt tự dưng tái đi.
- Khâm liệm : khâm : đồ bổ khuyết xếp trên, dưói, bốn bên thây người trong áo quần cho chặt ; liệm : vải hay lụa để bó thây người chết.
- Mai táng : chôn, đắp thành mồ.
- Gián quan : chức quan chủ việc can ngăn vua mà đàn hặc các quan khi có lầm lỗi.
- Trung trực : trung : hết lòng ; trực : ngay thẳng.
Lời Bàn
- Đời quân chủ chuyên chế, phải có những gián quan thì mới có người chế hạn được quyền vua, can vua bỏ điều xằng, khuyên vua làm điều hay. Nếu can khuyên vua không được thì chẳng là không làm hết cái chức trách rất trọng của gián quán ư ? Nhưng một đàng vua cứ nhất định không nghe, một đàng mình cố sức can mãi đến lúc chết chưa thôi, còn lấy xác can nữa, thì thực là đáng khen cái tâm chí sâu xa bền chặt ấy ! Xem chuyện Sử Ngư lại nhớ đến chuyện bác sĩ Bergonié suốt đời hết lòng với khoa học, lúc chết, cũng hiến xác cho người ta mổ xẻ để nghiên cứu về y học. Như thế mới thực là những gương sáng tận tâm với chức vụ để thiên hạ soi chung. 


20 – Yêu nên tốt, ghét nên xấu
Trước, vua Vệ rất yêu Di Tử Hà. Cái phép nước Vệ, ai đi trộm xe của vua, thì phải tội chặt chân. Mẹ Di Tử Hà đau nặng. Đêm khuya có người đến gọi, Di Tử Hà vội vàng lấy xe vua ra đi. Vua nghe thấy, khen rằng :
« Có hiếu thật ! Vì hết lòng với mẹ, mà quên cả tội chặt chân ».
Lại một hôm, Di Tử Hà, theo vua đi chơi ở ngoài vườn, đang ăn quả đào thấy ngọt còn một nửa đưa cho vua ăn. Vua nói :
« Yêu ta thật ! Của đang ngon miệng mà biết để nhường ta ».
Về sau, vua không có lòng yêu Di Tử Hà, như trước nữa. Một hôm phạm lỗi, vua giận nói rằng :
« Di Tử Hà trước dám thiện tiện lấy xe của ta đi. Lại một bận dám cho ta ăn quả đào thừa. Thực mang tội với ta đã lâu ngày, nói xong bắt đem ra trị tội. Ôi ! Di Tử Hà ăn ở với vua trước sau cũng vậy, thế mà trước vua khen, sau vua bắt tội, là chỗ tại khi yêu khi ghét khác nhau mà thôi. Lúc được vua yêu, chính đáng tội thì lại hóa công thần ; lúc phải vua ghét, chính không đáng tội thì lại hóa ra sơ. Cho nên người muốn can ngăn, đàm luận với vua điều gì, thì trước phải xem xét cái lòng vua yêu hay vua ghét tính thế nào rồi hãy nói.
Hàn Phi Tử
GIẢI NGHĨA
- Di Tử Hà : người thời Xuân Thu. Làm quan Đại phu nước Vệ.
- Chặt chân : một thứ hình trong năm hạng trọng hình đời cổ.
- Thiện tiện : chính mình không được làm như vậy mà cứ làm liều.
- Trị tội : đem luật hình ra mà trừng phạt kẻ phạm phép.
- Thân : gần, đằm thắm, quí hóa.
- Sơ : xa, hững hờ, ghét bỏ
- Đàm luận : nói năng, bàn bạc.
Hàn Phi Tử : Công tử nước Hàn, học trò Tuân Tử chuyên về bình danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ.
Lời Bàn
Sự yêu ghét thường làm cho người ta mờ đi không rõ hẳn được cái giá trị của người được yêu hay bị ghét ra thế nào. Không nói gì yêu người nầy, ghét người nọ, cũng chỉ một người ấy, lúc yêu cho ra thế nầy, lúc ghét cho ra thế kia. Cái thói thường : yêu thì nên tốt, ghét thì nên xấu, khen chanh thì chanh ngọt, chê hồng thì hồng chua. Trong bụng đã thế, thì cư xử chắc cũng theo như thế. Lúc yêu hậu bao nhiêu, thì đến lúc ghét lại bạc bấy nhiêu, yêu nhau cau bảy bổ ba, ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười. Lại chẳng những yêu ghét riêng một người ấy, thường yêu ghét đến cả những sự hay những người có can thiệp đến người ấy, yêu nhau yêu cả tông chi, ghét nhau ghét cả đường đi lối về. Sự yêu ghét làm cho ta thiên và nhẩm như thế, cho nên ta muốn cho công bình, khi yêu, khi ghét, phải nên rõ cái giá trị của người được yêu hay bị ghét, biết chỗ phải cũng phải biết chỗ trái, biết chỗ trái cũng phải biết chỗ phải cho người ta mới được.


21 – Hà Bá lấy vợ
Dân đất Nghiệp có tục cứ mỗi năm góp tiền mua một người con gái ném xuống sông để làm vợ cho Hà Bá. Sự mê tín ấy đã có lâu ngày, không ai phá nổi.
Lúc ông Tây Môn Báo, đến làm quan đấy, ông thân hành ra đứng làm chủ lễ cưới cho Hà Bá. Trước mặt đông đủ cả bô lão, hào trưởng, ông đồng bà cốt, ông cho gọi người con gái đến. Ông xem mặt xong, chê rằng : « Người con gái này không được đẹp ! Ta nhờ bọn ông đồng xuống nói với Hà Bá xin hoãn lại hôm khác, để tìm người đẹp hơn ». Ông lập tức sai lính khiêng một ông đồng quăng xuống sông.
Một lúc, ông nói : « Sao lâu thế này ! ». Rồi ông bảo đám bà cốt xuống nói hộ. Lập tức sai lính bắt một bà cốt ném xuống sông.
Một lúc, ông nói : « Sao không thấy tin tức gì cả ! Chừng lũ đồng cốt xuống nói không nên lời. Dám phiền các cụ bô lão đi giúp cho. Lại lập tức sai lính lôi một cụ vứt xuống sông.
Một lúc, ông nói : « Sao mãi không thấy về thế nầy ! Bọn đồng cốt, bô lão dễ đi cũng không được việc. Phải nhờ đến bậc hào trưởng mới xong ».
Lúc bấy giờ bao nhiêu người đều sám xanh mặt lại van lạy xin thôi. Tây Môn Báo nói : « Để thong thả ta xem đã …Mọi người run như cầy sấy. Một chốc ông mới bảo : « Thôi tha cho. Thế là Hà Bá không lấy vợ nữa rồi ».
Thành thử từ đấy dân đất Nghiệp không ai dám nhắc đến truyện Hà Bà lấy vợ nữa.
Sử Ký
GIẢI NGHĨA
- Nghiệp : tên một huyện đời nhà Hán tức là huyện Lâm Chương tỉnh Hà Nam bây giờ.
- Tục : thói quen lưu truyền lâu ngày đã thành nếp.
- Hà Bá : thần ở dưới nước.
- Mê tín : tin một cách mê muội không còn biết lẽ phải là thế nào nữa.
- Tây Môn Báo : người nước Ngụy thời Chiến Quốc làm quan rất giỏi, trừ được hại, hưng được lợi cho dân.
- Thân hành : chính mình đi làm lấy một việc gì.
- Bô lão : các cụ già.
- Hào trưởng : kẻ có quyền thế, làm bực trên trong làng.
Lời Bàn
- Sự mê tín thường làm hư người, tốn của, nát nhà, có khi mất cả mạng, thật là tai hại. Khi mê tín đã thành tục, thì khó lòng mà phá nổi. Muốn phá, tất phải dụng tâm khéo làm sao mới được. Ông Tây Môn Báo sở dĩ mà phá nổi cái tục cưới vợ cho Hà Bá, là vì ông biết trừ tự cái gốc rễ ; tức là đám đồng cốt quàng xiên, bọn cường hào ngoan cố, xưa nay quen thói cổ hoặc nhũng nhiễu người ta để kiếm ăn, để cầu lợi. Trừ hai hạng ấy để cứu vớt lương dân, chỉnh đốn phong tục thật là công minh và cương quyết vậy.
22 – Ghét con không giống mình
Doãn Văn Tử sinh được một đứa con, không thấy giống mình, lấy làm giận lắm, thường đánh đập luôn. Một hôm đang cầm gậy đánh, thấy Tử Tư đến chơi bèn nói rằng :
« Nó không giống tôi, không phải là con tôi. Tôi lại ngờ mẹ nó có ngoại tình mà đẻ ra nó, nên tôi muốn bỏ…
Tử Tư hỏi : « Cứ như ông nói, thì vợ vua Nghiêu vua Thuấn cũng chẳng đáng ngờ ư ? Hai ông là bậc thánh đế mà sao đẻ ra Đan Chu và Thường Quân thực không bằng kẻ thất phu. Như thế thì con cứ gì là phải giống cha ? Cái đạo thường thì phần nhiều cha mẹ làm sao đẻ con ra được như ý. Nhưng cha hiền mà đẻ ra con ngu, thì cũng là cái thế thường tự nhiên như thế, chớ nào có phải tội tự người vợ đâu ?…
Doãn Văn Tử nghe hiểu, nói rằng : « Thôi xin ông đừng nói nữa ».
Rồi về sau Văn Tử không bỏ vợ.
Khổng Tùng Tử
GIẢI NGHĨA
- Ngoại tình : đàn bà có chồng mà ăn ở hai lòng, còn chia tình với người ngoài nữa.
- Thánh đế : vua giỏi tài đức tuyệt vời.
- Thất phu : ngu đần, người hèn.
- Hiền : khôn ngoan tài giỏi hơn người.
- Ngu : đần độn, u mê.
Khổng Tùng Tử : tên bộ sách, ba quyển, 21 thiên của nhà Bác sĩ là Khổng Phụ làm ra.
Khổng Phụ : tên Tử Ngư hay Tử Giáp, cháu đời thứ tám đức Khổng Tử.

Lời Bàn
- Có cha ấy tất phải có con ấy, thường thì vẫn thế. Nhưng không phải cái lý nhất định bao giờ cũng như thế. Có khi cha mẹ rất hay mà đẻ con ra rất dở. Hổ phụ khuyển tử cũng nhiều, chớ ghét đứa con vì nó không giống mình, cầm gậy đánh nó, rồi lại rắp tâm đuổi mẹ nó đi, thì cũng chẳng là tự ái quá mà hóa ra si ư ? Cha mẹ sinh con, trời sinh tính, cố nhiên là thế. Nhưng đẻ con phải dạy, dạy con là việc rất cần. Nếu đẻ con chẳng dạy, để vậy mà nuôi, rồi cứ trách con dở, giận con hư, đó là lỗi nặng của người làm cha mẹ vậy.


23 – Lợn mẹ giết lợn con
Họ Tử Xa có con lợn nái sắc đen tuyền, đẻ một lứa ba con, hai con đen tuyền, một con loang lổ. Lợn nái nuôi hai con lợn con giống mình rất chăm chỉ cẩn thận, hơi một tí cũng lo sợ. Còn con lợn loang lổ khác mình thì ghét bỏ, sau cắn chết xé cả gan ruột nát nhừ mới thôi.
Tử Hoa Tử nói : « Gớm thay tâm thuật, hay chuyển di. Mắt đã mờ về kẻ giống mình hay khác mình, thí bụng sanh ngay ra có kẻ yêu, kẻ ghét. Đã ghét, đến con ruột đẻ ra mà cũng hại cả con mà không hối huống chi là người khác máu với mình. Người đời lúc bình cư, thì âu yếm thân thiết, thề ước cùng nhau, kiên cố tưởng keo sơn cũng không bằng. Khi làm đến thế lợi, chỉ chênh nhau bằng sợi tơ sợi tóc, thì mặt đã đổi sắc, cơn giận nổi lên và tìm cách tàn hại nhau ngay lập tức, gớm thay ! tâm thuật chuyển di, tưởng chẳng khác gì con lợn nái ».
Tử Hoa Tử
GIẢI NGHĨA
- Tử Xa : quan Đại Phu nước Tần.
- Lợn nái : lợn cái nuôi để lấy lợi.
- Đen tuyền : tiếng tuyền là chữ toàn nghĩa là vẹn, đọc trạnh ra, đây nói suốt cả thân thể con lợn cùng một sắc đen.
- Loang lổ : chỗ đen chỗ trắng, lợn như thế gọi là lợn lang.
- Tâm thuật : cách nghĩ trong tâm não làm thế nầy thế kia.
- Chuyển di : núng động và thay đổi.
- Hối : lầm lỗi mà biết ăn năn nghĩ lại.
- Bình cư : ngày thường.
- Thân thiết : gần gũi đằm thắm.
- Thề ước : thề nguyền gắn bó với nhau để làm một việc gì.
- Kiên cố : bền chặt.
- Thế lợi : quyền thế, tài lợi.
- Tàn hại : làm cho tan nát khổ sở.
Lời Bàn
- Cái thói thường, đồng chủng đồng tông, hay đồng tình, đồng chí thì ưa nhau, mến nhau, còn ngoại giả, thì đem bụng ngờ vực, ghen ghét, coi người ta như cừu địch cả, thực là hẹp hòi đáng tiếc ! Người quân tử không bao giờ lấy cái hình sắc khác nhau mà thành bụng yêu hay sinh bụng ghét, lại nhất là, không lấy cái tư tưởng thế lợi trái nhau mà lúc hợp, lúc ly, lúc thân, lúc sơ, lúc thề ước, lúc tàn hại nhau bao giờ. Người ta tuy không cùng nòi giống, cùng tư tưởng, cùng chí hướng với mình, nhưng người ta là hạng quang minh chính đại, mình cũng phải nên có lòng thân yêu, có lượng cao cả để đối với người ta thì mới đáng gọi là yêu đồng bào và trọng nhơn đạo. Nếu không thì tâm thuật lợn nái mất rồi ! 


24 – Giáp, Ất tranh luận
-Giáp hỏi Ất : Đúc đồng làm chuông, đẽo gỗ làm dùi, lấy dùi đánh chuông tiếng kêu boong boong, thì tiếng kêu ấy là gỗ kêu hay là đồng kêu ?
-Ất đáp : Lấy dùi gõ vào tường vách không kê, gõ vào chuông kêu, thế thì tiếng kêu ở như đồng.
-Giáp hỏi : Lấy dùi gõ vào đồng tiền trinh không kêu, thế thì có chắc tiếng kêu ở như đồng mà ra không ?
-Ất nói : Đồng tiền đặc, cái chuông rỗng, vậy tiếng kêu ở như các đồ vật rỗng mà ra.
-Giáp hỏi : Lấy gỗ, lấy bùn làm chuông, đánh không ra tiếng, thế thì có chắc tiếng kêu là ở đồ vật rỗng mà ra không ?
Âu Dương Tu
GIẢI NGHĨA
- Tranh luận : cãi nhau cho ra lẽ.
- Tiền trinh : tiền đồng, có người cho tiền đồng bên Tàu đem sang ta đầu tiên là tiền đồng niên hiệu Càn Trinh, nên gọi là tiền trinh.
Âu Dương Tu : người đời nhà Tống thi đỗ Tiến Sĩ làm quan Hiếu Sư, là một nhà văn chương có tiếng.
Lời Bàn
- Cứ xem Giáp, Ất tranh luận thì cũng phân vân, không rõ tiếng kêu là tự chuông hay tự dùi ra. Chuông là đồng vốn kêu ; nhưng không có dùi đánh vào, không kêu. Vậy muốn có tiếng kêu, tất phải có cả chuông cả dùi mới được. Tiếng kêu là gì ? Chẳng qua là cái âm thanh từ hai vật chọi nhau, chạm vào nhau mà sinh ra. Tuy vậy, nếu nói tiếng kêu là tự cả chuông, cả dùi mà ra, thì hình như giữa cái chủ nghĩa « hai phải » trắng, đen là một. Thế mới hay : « Lẽ phải không cùng, càng nghị luận lắm, có khi lại càng như bối rối thêm ra không tài nào gỡ nổi. Nên biết được thế nào, thì hay thế, chớ cứ chấp nhất câu nệ cho mình là phải không biết cái phần phải của người, thì là có tính thiên và lượng hẹp. Nói cho đúng : muốn rõ vật lý, cần phải có khoa học. Không biết khoa học mà bàn luận vật lý, thì không tài nào xác thực được.


25 – Mặt trời xa, gần
Đức Khổng Tử đi chơi ra phía đông, thấy hai đứa bé cãi nhau, hỏi tại làm sao, thì một đứa nói rằng :
-« Tôi, thì tôi cho mặt trời, lúc mới mọc, ở gần ta hơn, về buổi trưa, ở xa ta hơn.
-Còn một đứa nói : Tôi, thì tôi cho mặt trời lúc mới mọc ở xa ta hơn, về buổi trưa, ở gần ta hơn.
-Đứa trước cãi : Mặt trời lúc mới mọc to như cái bánh xe, đến giữa trưa, nhỏ như cái bát ăn, thế chẳng phải tại xa ta mới nhỏ, gần ta mới to là gì ?
-Đứa sau cãi : Lúc mặt trời mới mọc, thì mát mẻ, đến giữa trưa thì nóng nực, thế chẳng phải tại gần ta mới nóng, xa ta mới mát là gì ? »
Đức Khổng Tử nghe nói, không giải quyết được ra làm sao.
Hai đứa bé cười, bảo : « Thế thì cho ông là người đa tri thế nào được ! »
Liệt Tử
GIẢI NGHĨA
- Ra phía đông : đi về con đường bên phương đông là phương mặt trời mọc, nên mới gặp hai đứa bé cãi nhau về mặt trời.
- Giải quyết : gỡ ra mối, nói ra lẽ và phán đoán nhất định thế nào là phải, trái làm cho những người ngờ vực hay phản đối nhau cũng phải phục.
- Đa tri : biết nhiêu.
Liệt Tử : sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hư chí đức chân kinh.
Lời Bàn
-Buổi sáng, buổi trưa mặt trời ở cách trái đất cũng không phải lúc gần, lúc xa gì cả. Nếu buổi sáng, thấy mát, buổi trưa, thấy nóng hơn, chẳng qua là tại tia nóng mặt trời chiếu vào chỗ ta ở trên mặt đất, buổi sáng còn chếch, buổi trưa mới thẳng. Vả chăng buổi sáng, còn những sương mát ban đêm chưa tan hết cho nên mát hơn buổi trưa là lúc khí nóng tụ tích mãi vào, cho nên nhiệt độ càng cao. Còn nếu buổi sáng trông mặt trời to, buổi trưa trông mặt trời nhỏ, chẳng qua là một cõi hoản hình của con mắt trông như thế mà thôi. Mặt trời đâu vẫn ở đó, trái đất xoay chung quanh mặt trời. Lúc mặt trời mới mọc, con mắt trông chếch, đến buổi trưa con mắt trông thẳng mà lại trông qua từng không khí, cho nên thấy to nhỏ khác nhau. Vậy chỉ tại người trông hóa to, nhỏ, chớ không phải chính mặt trời xa, gần gì cả… Ấy đại để bây giờ thì ta giải nghĩa như thế. Nhưng ở vào cái đời ông Khổng khoa học chưa có mấy, thì xem hai đứa bé suy lý với nhau, đứa nào cũng phải, khó lòng mà quyết định được thật. Vả lại người ta thông minh, thánh tri đến đâu cũng không sao biết cho hết mọi sự vật được.
Vì rằng đời người sống có hạn, mà sự trí thức thì mênh mông bờ bến nào !
--------------------------------------------------------------------------------
26 – Cách phục lòng người
Mình làm người không sang trọng giàu có, thì chớ nên kiêu xa.
Mình là bậc thông minh tài trí, thì chớ nên khinh ngạo.
Mình có sức lực khỏe mạnh, thì chớ nên đè nén người.
Mình ăn nói linh lợi, thì chớ nên dối trá người.
Mình còn kém, thì phải học, chưa biết, thì phải hỏi.
Đối với làng nước, thì phải giữ cái trật tự trên dưới.
Đối với người nhiều tuổi, thì phải giữ cái nghĩa con em.
Đối với người bằng vai, thì phải giữ cái nghĩa bầu bạn.
Đối với lũ trẻ thơ, thì phải dạy bảo khoan dong.
Như vậy thì ai cũng yêu, ai cũng kính, không ai tranh giành với mình. Tâm địa rộng rãi thênh thang như trời đất, thì bao bọc được cả muôn loài.
Hàn thi ngoại truyện
GIẢI NGHĨA
- Kiêu xa : kiêu : lên mặt khinh người - xa : hoang phí vô độ; khinh người rẻ của.
- Thông minh tài trí : sáng suốt giỏi khôn.
- Khinh ngạo : rẻ rúng coi thường.
- Linh lợi : khôn ngoan lanh lẹ.
- Trật tự : thứ bậc trên dưới.
- Khoan dong : bao bọc tha thứ.
- Thênh thang : rộng rãi phẳng phiu không có gì làm vướng, làm bợn cả.
Hàn thi ngoại truyện : bộ sách chép những việc, những câu nói đời xưa, dưới mỗi bài có chứng dẫn mấy câu thơ của Hàn Anh làm. Hàn Anh người đời nhà Hán làm bác sĩ đời vua Văn đế lấy những ý trong thơ của người ta mà làm Nội Ngoại truyện, gọi là Hàn thi, bây giờ chỉ còn Ngoại truyện mà thôi.
Lời Bàn
- Muốn cho người tâm phục, không phải lấy tiền tài hay quyền thế mà khiến được, tất phải biết cách cư xử với người cho phải đạo thì mới được. Bài nầy chính tóm tắt mấy câu về cái đạo ấy. Đoạn trên cốt ngăn ngừa mấy câu cái ác tính thường kẻ hơn người hay mắc phải. Đoạn dưới nói các cách ăn ở với mọi bậc người trong xã hội. Nói tóm lại khiêm nhã kính ái là một phương pháp rất hay để ở đời. 


27 – Lòng cương trực
Thôi Trữ là quyền thần nước Tề, định giết vua Thanh công, bèn hội họp sĩ phu lại ăn thề. Ai nấy đều sợ hãi, răm rắp vâng lời. Duy có Án tử nghiễm nhiên như không, nhất quyết không chịu thề.
Thôi Trữ bảo Án tử : « Ngươi nghe ta. Ta lấy được nước, thì ta cho một nửa. Nhược bằng không nghe, ta giết ngay lập tức ».
Lúc ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm những sự đưa gươm giáo ra đâm chém Án tử. Chết đến nơi, mà Án tử vẫn không biến sắc mặt, ung dung nói rằng :
« Lấy lợi dứ người ta, mà bảo người ta phản bội quân thượng là bất nhân ; lấy binh khí hiếp người ta, mà làm người ta mất chí khí là bất dũng. Giết thì giết, ta đây không theo việc nhà ngươi làm ».
Thôi Trữ nghe nói, không dám làm gì Án tử.
Án tử đứng dậy, ung dung bước ra.
Tả Truyện
GIẢI NGHĨA
- Cương trực : cứng rắn, ngay thẳng.
- Quyền thần : người bầy tôi chiếm hết cả quyền vua chúa.
- Tề : một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
- Sĩ : quan nhỏ.
- Phu : quan to.
- Ăn thề : giết một con vật lấy máu cùng uống mà thề ước với nhau làm một việc gì.
- Phản bội quân thượng : tráo trở hai lòng đối với bề trên.
- Bất nhân : mất hết lòng thương người.
- Bất dũng : không có can đảm khí phách.

Tả truyện : sách của Tả Khưu Minh nhà Chu làm, kể những sự tích về lịch sử thời Xuân Thu.
Lời Bàn
- Cường quyền thường muốn át công lý, tuy vậy công lý vẫn hay uốn được cường quyền. Thôi Trữ mạnh biết bao nhiêu, mà chỉ một câu nói của Án tử cũng đủ làm cho phải lùi. Thế mới hay cái lòng người, cái lẽ phải có sức hơn là mũi gươm, ngọn giáo. Những người có lòng trung nghĩa, cá tính cương quyết như Án tử, cứng như sắt, đỏ tựa son, dù nguy cấp thế nào cũng không đổi đại tiết chính là những người giữ được công lý để đối phó với cường quyền.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mời coi thêm