«Cứ theo lễ đi xe qua chỗ ba người, thì phải xuống, qua chỗ hai người thì phải cúi đầu vào miếng gỗ trước xe để tỏ lòng kính trọng. Nay quân, dân nước Trần sửa sang cửa thành biết bao nhiêu là người, thế mà thầy đi qua, không có lòng kính trọng, là cớ làm sao?»
«Nước mất, mà không biết, là bất tri ; biết mà không lo liệu, là bất trung; lo liệu, mà không liều chết là bất dũng. Số người nước Trần tuy đông, mà ba điều ấy không biết được một, thì bảo ta kính làm sao được!»
- Trần : một nước nhỏ thời Xuân Thu ở vào địa phận Hà Nam và An Huy, bây giờ.
- Sở : một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ.
- Tu bổ : sửa sang chữa lại.
- Bất tri : ngu dại không biết phải trái.
- Bất trung : chểnh mảng không hết lòng với vua với nước.
- Bất dũng : không có can đảm khí phách
- Cứ theo cổ lễ rất phiền (ba người xuống xe) nhưng Đức Khổng Tử vốn là người hay giữ lễ, nên thầy Tử Cống mới hỏi. Đức Khổng Tử đáp thế ý hẳn quan dân nước Trần bấy giờ ai nấy đều ra dáng vui vẻ, hình như không còn ai biết đến nước là gì. Nếu quả vậy thì có người cũng như không, ngài không kính rất là phải, vì rằng : « Ngu dân bách vạn vị chi vô dân » nghĩa là nhân dân ngu dại thì tuy dân số nhiều đến trăm vạn, cũng đáng bảo là không có người dân nào.
- Dài quá thì… : câu nầy có ý nói đầy, vơi, tròn, khuyết, dài, ngắn, thường hay đắp đổi cho nhau. Thí dụ như ngày hạ chí là ngày dài nhất trong năm, thì những ngày sau ngày hạ chí tất cứ mỗi ngày một ngắn dần lại; ngày đông chí là ngày ngắn nhất thì những ngày sau ngày đông chí lại dài dần mãi ra.
- Kinh : cũng là tên nước Sở.
- Trần : một nước nhỏ thời Xuân Thu ở vào địa phận Hà Nam và An Huy, bây giờ.
- Triều thần : quan tại triều.
- Súc tích : chứa chất để dành.
- Phục dịch : làm các công việc vua quan như làm đường sá, đắp thành lũy,v.v…
- Bài nầy có hai đoạn. Đoạn trên nói cái lẽ ngược, xuôi, đoạn dưới dẫn một câu thí dụ. Ở đời có lắm cái tưởng là xuôi mà thực là ngược, có lắm cái cho là ngược mà thực là xuôi. Ngược, xuôi điên đảo rất là khó phân ! Chỉ có người nào không chịu xét bề ngoài, biết cái đầy, vơi, tròn, khuyết, dài, ngắn đắp đổi cho nhau là mới đoán trúng được. Như người sứ đây, đến tận nơi, mắt trông thấy thế nào chỉ biết có thế thôi, chớ Ninh Quốc vẫn ở nhà, lấy cái lý đoán mà biết rõ được cái tình hình ở bên trong thực là người cao đoán vậy.
- Kiềm : nước Sở thời Chiến quốc, tức là huyện Nguyên Lăng, tỉnh Hồ Nam bây giờ.
- Hiếu sự : hay bày việc, sinh việc.
- Thần vật : loài vật quái lạ.
- Giáng sinh : ngu dại không biết phải trái.
- Bài nầy có ý nói : Ở đời có lắm người, lắm sự, lúc mới biết cho là lạ, thì còn ưa, còn sợ ; đến lúc đã biết rõ rồi thì lại khinh thường, chẳng coi vào đâu nữa. Nhác trông ngỡ tượng tô vàng, nhìn ra mới biết chẫu chàng ngày mưa. Nhưng bài nầy lại có ý chê người khờ dại không biết giữ thân cho kín đáo, để đến nỗi người ta dòm được tâm thuật của mình mà làm hại mình, như con lừa bị con hổ hại vậy. Những nhà làm văn bây giờ thường hay dùng hai chữ « kiềm lô » (lừa đất Kiềm) để chỉ những người tài nghề kém cỏi, không có gì lạ.
« Ta đánh đàn đến cả quỉ thần cũng phải say mê, thế mà vua không biết cho ta ! »
« Vua thích nghe sáo mà bác đánh đàn, cho đàn bác hay đến đâu, nhưng vua không thích thì làm thế nào được ? Thế là bác chỉ giỏi ngón đàn, chớ không khéo cầu danh ở nước Tề nầy vậy ! »
- Tề : một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
- Công danh : công là khó nhọc mà được việc; danh là tiếng tăm; công danh đem sự khó nhọc ra để được danh giá.
- Mỉa : có ý bới móc đến chỗ sai lầm, không hay của người ta.
- Đem đàn ra đánh cho người thích sáo nghe, mà cầu cho người ta ưa mình, thì chẳng là khờ vụng lắm ư ! Cho nên mình tuy có tài, muốn thi thố cái tài, thì phải dò trước xem người dùng mình có ưa cái tài ấy không. Bằng không, mà mình cũng cứ phô tài, thì chẳng những việc muốn cầu không được, mà lại để thiên hạ người ta chê cười nữa.
- Tề : một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
- Đông quách tiên sinh : bây giờ các nhà làm văn thường dùng bốn chữ nầy để chế những người vô tài mà lạm dự vào một địa vị nào. Chính nghĩa bôn chữ ấy là nhà thầy (tiên sinh) họ Đông quách hay ở ngoài thành phía đông (Đông quách).
- Lạm dự : ăn may mà được hưởng một phần quyền lợi quá tài đức mình.
- Những kẻ vô tài, gặp may nhờ dịp mà được làm quan có khác gì Đông quách tiên sinh nói trong truyện nầy ? Những khi ồ ạt, gọi là có mặt cho đủ số, thì còn giữ được địa vị, chớ đến khi khảo sát từng người thì tài nào mà không bị thải !
- Lỗ : một nước chư hầu nhỏ, thời Xuân Thu Chiến Quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
- Việt : tên các nước thời Xuân Thu ở vào tỉnh Chiết Giang, Giang Tô và một phần Sơn Đông bây giờ.
- Cùng khổ : khốn khổ, khổ sở.
- Khốn cùng : quẫn bách hết cách xoay xở.
- Đến chỗ đi đầu không mà bán mũ, đến chỗ đi chân không mà bán giày, thì cũng giống như mùa rét mà bán quạt, mùa nực mà bán chăn bông, tuy trái nơi và trái thời khác nhau, nhưng cũng là trái, không được việc cho mình, mà lại còn để tiếng cười cho thiên hạ nữa. Cho nên người có tài phải tìm nơi đáng ở mà ở chớ đem đàn mà gảy tai trâu có ích gì !
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét